Hướng tới việc bảo đảm an ninh nguồn nước
Hướng tới việc bảo đảm an ninh nguồn nước Nhằm bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia cho trước mắt vàlâu dài, Bộ TN&MT đang xây dựng Kế hoạch hành động quốc gia về nâng cao hiệu quả quản lý, bảo vệ, sử dụng tổng hợp tài nguyên nước. Đến nay, Dự thảo Kế hoạch đãhoàn thiện vàđang được lấy ýkiến góp ýcủa các địa phương vàcác cơ quan liên quan trước khi trình Chính phủ xem xét, ban hành. Theo Cục Quản lýTài nguyên nước, mặc dùcông tác quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước vàphòng, chống giảm nhẹ tác hại do nước gây ra đãđạt được những thành tựu quan trọng, góp phần to lớn cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xãhội của đất nước, song việc quản lý, bảo vệ, sử dụng tổng hợp tài nguyên nước còn nhiều khókhăn, thách thức. Biến đổi khíhậu vàcác quốc gia ở thượng nguồn tăng cường khai thác, sử dụng nguồn nước các sông quốc tế đang vàsẽ gây sức ép nặng nề lên tài nguyên nước vàan ninh nguồn nước quốc gia. Ông Hoàng Văn Bẩy, Cục trưởng Cục Quản lýTài nguyên nước cho biết: Trên 60% lượng nước ngọt của nước ta phụ thuộc vào nguồn nước quốc tế. Các quốc gia vùng thượng lưu đang đẩy mạnh các hoạt động khai thác, sử dụng nước, nhất làxây dựng các công trình thủy điện, chuyển nước. Đây làmột thử thách hết sức lớn trong việc bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia. Đólàchưa kể, việc khai thác sử dụng tài nguyên nước thiếu bền vững, chưa hợp lývàhiệu quả thấp. Nhiều lưu vực sông đãbị khai thác quámức, do vậy, tình trạng thiếu nước, căng thẳng về nước ngày càng trầm trọng hơn. Trong khi đólại chưa cócơ chế chia sẻ một cách công bằng, hợp lýgiữa các nhu cầu sử dụng nước. Tình trạng tranh chấp sử dụng nguồn nước giữa thượng lưu với hạ lưu, giữa các mục đích sử dụng nước đang ngày càng tăng. Theo ông Hoàng Văn Bẩy, chất lượng nước đang bị suy giảm ngày càng nghiêm trọng, ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng cuộc sống vàviệc khai thác, sử dụng nước. Nhất là, việc quáchútrọng tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn màchưa coi trọng sự phát triển bền vững trong dài hạn đãgây ra những tổn hại đối với nguồn nước màviệc khắc phục không dễ vàcũng rất tốn kém. Trong giai đoạn hiện nay, quản lýtổng hợp tài nguyên nước làphương pháp tiếp cận tiên tiến, đãđược nhiều quốc gia trong khu vực vàtrên thế giới thực hiện cókết quả, làkinh nghiệm quốc tế rất cần thiết áp dụng ở nước ta. Mặc dùquan điểm quản lýtài nguyên nước phải được thực hiện theo phương thức tổng hợp, thống nhất vàviệc quản lý, bảo vệ tài nguyên nước phải bảo đảm tính hệ thống của lưu vực sông đãtrở thành nguyên tắc chỉ đạo trong Chiến lược quốc gia tài nguyên nước. Tuy nhiên, trên thực tế, những quan điểm vànguyên tắc đóchưa thực sự được triển khai đồng bộ ở các cấp, các ngành. Ngoài ra, thiếu thông tin, số liệu về tài nguyên nước cũng làmột trở ngại lớn, giảm hiệu quả của công tác quản lývàcác hoạt động khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước vàphòng, chống, giảm thiểu tác hại do nước gây ra, bảo đảm phát triển kinh tế - xãhội bền vững. Bộ máy tổ chức, năng lực quản lýtài nguyên nước chưa đáp ứng yêu cầu, nhất làở các địa phương. Mặt khác, ở đâu đóvẫn chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của tài nguyên nước đối với sự phát triển bền vững, chưa huy động được sự tham gia của cộng đồng trong các hoạt động bảo vệ tài nguyên nước, giám sát việc khai thác, sử dụng nước tại địa bàn. Ông Hoàng Văn Bẩy khẳng định: Cần cómột kế hoạch toàn diện, mang tầm quốc gia để khắc phục được các mặt hạn chế, yếu kém nêu trên, thúc đẩy các hoạt động nhằm bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia cho trước mắt vàlâu dài, góp phần phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, bảo đảm an sinh xãhội vàbảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước. 10 nhiệm vụ chủ yếu để đạt được các mục tiêu của Kế hoạch Một là, tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật, chiến lược về tài nguyên nước nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng nước hợp lý, tiết kiệm tài nguyên nước vàphòng chống cóhiệu quả các tác hại của nước do nhân tai gây ra. Hai là, tăng cường các biện pháp chủ động thích nghi, ứng phóvới những diễn biến của biến đổi khíhậu, nước biển dâng vàviệc sử dụng nước ở thượng nguồn các lưu vực sông liên quốc gia. Ba là, đẩy mạnh quy hoạch, kiểm kê, điều tra cơ bản, quan trắc, giám sát tài nguyên nước. Bốn là, tăng cường các biện pháp chủ động kiểm soát, ngăn ngừa, hạn chế tình trạng ônhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước. Năm là, tăng cường các biện pháp điều hòa, sử dụng tổng hợp, tiết kiệm tài nguyên nước vàphát triển các môhình sử dụng nước hiệu quả. Sáu là, tăng cường vai tròcủa khoa học vàcông nghệ trong việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, bảo vệ, sử dụng tổng hợp tài nguyên nước. Bảy là, mở rộng, tăng cường hiệu quả hợp tác quốc tế về tài nguyên nước. Tám là, tăng cường các nguồn lực tài chính để thực hiện bảo vệ, sử dụng tổng hợp tài nguyên nước. Chín là, tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về quản lý, bảo vệ vàkhai thác sử dụng tài nguyên nước. Mười là, hoàn thiện, nâng cao năng lực, hiệu quả quản lýtài nguyên nước ở các cấp.